ÁNH SÁNG LINH ĐIỆN (2)

Ánh Sáng Linh Điện           (tt)
Light in the Sanctuary  –  G. Hodson

 

Xem Ánh Sáng Linh Điện các bài trước

Ông tiếp tục như thế, chọc tôi với các câu hỏi cho tới khi ông hoàn toàn phá vỡ niềm tin tôi quí chuộng về Kinh thánh, và biến tôi thành thanh niên rất, rất là thiểu não. Tim tôi làm như trống rỗng và tôi không biết quay về đâu để tin.
Hẳn tôi đã mang sự rầu rĩ của mình tới sở làm, vì một đồng nghiệp lớn tuổi thuộc phái Quaker  có vẻ hiểu khó khăn của tôi. Ngày kia họ đưa cho tôi quyển sách nhỏ tên Esoteric Christianity, tác giả Annie Besant, khi ấy là Hội trưởng hội Theosophy. Việc hăm hở đọc sách ấy tái tạo niềm tin của tôi vào Thiên Chúa giáo, và cho tôi hiểu biết về kinh thánh như là sự hòa lẫn giữa lịch sử, biểu tượng học và ẩn dụ.
Hiểu biết nhờ kinh nghiệm này về sau cho kết quả là tôi nghiên cứu kỹ về các ẩn dụ, huyền thoại và biểu tượng, và đánh thức trong tôi cảm nhận về sự kiện là chúng nói về các sự kiện lịch sử mà đúng ra là các chân lý sâu xa và vĩnh cửu. Lòng thích thú  của tôi và sự học hỏi các đề tài ấy, dẫn tới việc viết bốn sách và hai bài viết ngắn về minh triết ẩn dấu trong Kinh thánh; và trong khi viết điều này, tôi đang làm việc cùng với Sandra nhà tôi, viết một sách có hình mô tả, về minh triết bí ẩn và chân lý có không những trong kinh sách mà  luôn cả những huyền thoại trên thế giới.
Về sau, tôi được quen biết bà Besant nhưng trước khi việc đó xẩy ra, tôi có hân hạnh  dự bài nói chuyện của bà, và trong dịp ấy có được kinh nghiệm sâu xa rất cảm động. Đó là vào tháng Ba 1912, một thời gian ngắn sau khi tôi dời đến Manchester. Tôi mừng rỡ khi đọc quảng cáo là bà Besant sẽ diễn thuyết tại sảnh đường nổi tiếng Free Trade Hall, và dĩ nhiên là tôi đến dự.
Chẳng những tôi  mê mẩn với triết lý mà bà diễn giải, mà khi nhìn bà, tôi thấy điều về sau biết ra là hào quang, chiếu sáng tỏa ra từ bà vượt ra ngoài bức tường của phòng giảng, đầy mầu sắc rực rỡ đủ vẻ, túa ra những dải ân lành cho thế giới. Kinh nghiệm này cho ảnh hưởng mạnh mẽ tới độ tôi lập tức gia nhập hội Theosophy.
Đây không phải là kinh nghiệm chót. Sau đó một thời gian tôi đọc được quyển sách Man, Visible and Invisible do bà Annie Besant và ông Leadbeater viết, và trang đầu của sách vẽ hào quang đúng y như tôi đã thấy trong buổi diễn thuyết của bà Besant tại Manchester. Thực vậy, khi nhìn lại, tôi thấy buổi tối hôm ấy tại Free Trade Hall là một biến cố quyết định trong đời mình.
Tôi trở thành rất tích cực tại chi bộ Manchester của hội TTH, và sau một thời gian tôi được chỉ định là một trong các giảng viên của nó, được gửi đi tới các nhóm nhỏ ở những thị trấn chung quanh (ông tiếp tục giảng suốt đời cho hội  từ đó tới một năm trước khi chết).  Lần trình bầy đầu tiên của tôi là tại thị trấn Wigan, và bài nói chuyện của tôi là về đề tài ‘Sự Sống sau khi Chết’. Không lâu sau đó khi trở lại nơi này cho bài thứ hai, có một bà mặc áo tang cùng con gái đứng chờ tôi trước cửa nhà họp. Hai người khẩn khoản xin được nói chuyện nên tôi dàn xếp để gặp họ.
Bà mẹ kể là vài tuần trước khi tôi có bài giảng ‘Sự Sống sau chi Chết’, con trai bà nằm chờ chết và bà cảm thấy sầu não tột cùng. Y sĩ chăm lo khuyến cáo bà nên ở gần bên anh và bà ngủ ở phòng kế bên, với cửa giữa hai phòng để mở, riêng phòng bà có thêm cửa mở ra ngoài. Trong đêm, cửa này mở ra và có hai thanh niên bước vào; làm như họ không nhận biết có bà mà đi qua để vào phòng nơi con trai bà nằm. Lát sau họ trở ra và một trong hai thanh niên nói chuyện với bà với sự dịu dàng rất mực.
Anh nói bà không nên đau khổ vì bà không mất con mà anh chỉ rời bỏ xác thân vật chất. Rồi thanh niên tiếp tục và giải thích về đời sống ở bên kia, và bà thấy được an ủi hết sức và nhẹ lòng. Sau rốt hai thanh niên đi ra qua cửa mà họ đã vào. Con trai bà qua đời sau đó một thời gian ngắn, và người mẹ được nâng đỡ bởi sự trợ giúp bà nhận được. Bà thuật lại cho gia đình nghe, luôn cả bạn bè, câu chuyện về hai người khách lạ nên mọi người đâm ra quen thuộc với hai người trợ giúp như bà.
Rồi mẹ và con gái dự buổi giảng của tôi ‘Sự Sống sau chi Chết’ và ngồi ngay hàng đầu. Họ sững sờ khi bước lên bục là người không gì khác hơn một trong hai thanh niên đã gặp bà ở nhà ! Họ muốn kể tôi nghe câu chuyện và bầy tỏ lòng biết ơn. Khi đó tôi chưa quen với chỉ dạy TTH về ‘người cứu trợ vô hình’, nhưng sau đó không lâu tôi học về điều ấy, và từ đó trở đi nhất quyết thực hành là mỗi tối trước khi đi ngủ, tôi sẽ dự vào công việc này. Dầu vậy tôi phải thú thật là trong những ngày đầu sớm sủa, tôi không nhớ chi hết là đã có làm vậy vào dịp mà bà mẹ rất biết ơn đã kể cho tôi nghe.
Vài ký ức khác trở về có liên hệ với công việc của tôi ở Manchester. Trong buổi lễ tôi gia nhập hội tại thành phố đó, tôi chỉ ý thức phần nào chuyện xẩy ra bên ngoài, vì tôi làm như đang xem hai cảnh tượng. Nó hiện ra là một cái cân hai đĩa gần như sống động, và bên cạnh đó là một cái ghế nghi lễ. Bà chi trưởng là người có thông nhãn, và là thầy dạy mà tôi rất quí trọng về chuyện huyền bí, nhận thấy tôi lơ đãng và sau đó hỏi tôi về việc ấy. Tôi thuật lại cảnh tượng cho bà hay và bà, người mà về sau tôi nhận ra là hết sức chân thật và đầy hứng khởi, diễn giải nó cho tôi hay. Cái cân, bà nói, là biểu tượng cho việc trang trải karma cả lợi và bất lợi từ những kiếp trước, sự quân bình về nhiều mặt. Còn cái ghế, bà cảm thấy đó là biểu tượng hiển nhiên cho sự phát triển huyền bí tương lai của tôi.

Những Năm của Thế Chiến I
Một trong những kinh nghiệm lạ lùng và giúp đỡ nhất trong đời tôi xẩy ra vào khoảng thời gian này. Thế Chiến I diễn ra và tôi bị dằng co trong tâm. Việc học TTH khiến tôi rất quí chuộng lòng từ, và tôi co người lại với chuyện nhập ngũ cùng tất cả ý nghĩ về đời quân nhân. Tôi không tìm ra giải pháp nào và tiếp tục có hoang mang cùng khổ sở.
Một đêm tôi thức giấc với hồi nhớ rõ rệt là đã đứng trước mặt một Chân Sư cao cả, mặc áo trắng và chói ngời ánh sáng trắng. Tay phải ngài vươn ra về phía tôi, và trong bàn tay là một thanh gươm ngửa lên sáng loáng. Lòng hoài nghi tan biến và tôi hiểu ngay là bổn phận của tôi nằm trong việc bảo vệ quốc gia nhỏ bé Belgium, khi ấy vừa bị quân Đức xâm chiếm.
Gần như ngay lập tức tôi gia nhập Trung Đoàn Kỵ Binh, vì tôi biết cỡi ngựa từ khi còn nhỏ. Kể từ lúc ấy, tôi thấy sự khác biệt rõ rệt giữa một cuộc chiến tranh xâm hấn - là điều luôn luôn không thể nào biện minh được - và một cuộc chiến tranh tự vệ, luôn luôn biện minh được và thực ra là thiết yếu, tôi nghĩ vậy. Khi tàn cuộc chiến và người trong trung đoàn phải chia tay với ngựa, một số đã hóa ra thân thiết với con vật, có lẽ vì đã cùng nhau trải qua bao trận đánh, nên họ choàng tay lên cổ ngựa và bật khóc.
Sau đó khi là sĩ quan thiết giáp dự khóa huấn luyện tại Dorsetshire, tôi có hân hạnh đến thăm nhà một hội viên TTH có tiếng ở Bournemouth. Có lần, khi đến nơi sau một tuần huấn luyện mệt nhọc và đi xe gắn máy nhiều dặm đường, tôi về phòng mà chủ nhà đã dành cho tôi khi có chuyến viếng thăm như vậy, để nghỉ ngơi mà tôi thấy trước là rất cần. Tuy nhiên khi vừa nằm duỗi thẳng trên giường, trong tâm thức tôi thấy ngay là mình đứng trước một trong các Chân Sư Minh Triết cao cả, vị Chân Sư Kuthumi. Tôi ở trong trạng thái ấy một lúc lâu, tham thiền chìm đắm.
Cuối cùng tôi đứng dậy và nghe có tiếng bên ngoài cửa sổ, tôi nhìn ra vườn. Ở đó tôi thấy một nhóm đông người đứng nghe một ông lớn tuổi. Tôi đi ra và nhập bọn. Tôi được biết người nói chuyện không ai khác là ông A.P. Sinnett, người nhận nhiều thư của vị Chân Sư này, và được xem như là đệ tử tại gia của ngài. Sự kiện như thể nhấn mạnh linh ảnh trước đó, và trọn câu chuyện làm tôi có ý thức rộng lớn hơn về thực tại của Chân Sư.
Cũng trong khoảng thời gian ấy, tôi về doanh trại sau buổi tập, chắc là lái xe tăng, và nằm trên giường. Bỗng tôi kinh ngạc thấy anh trai tôi Stanley đến trong thể thanh, khi đó anh đang ở Pháp với quân đội Canada. Đầu anh quấn băng và tôi biết là anh bị thương và đã tử trận. Không lâu sau đó, mẹ tôi ở London gửi tin cho hay anh đã bị thiệt mạng trong trận Lens, diễn ra vào lúc tôi thấy anh đến thăm.
Trong dịp khác nữa, khi đang được huấn luyện  để dùng loại xe tăng mới ở Pháp, tôi tham thiền gần nhà thờ St Martin Les Deux Eglises ở bìa một khu rừng nhỏ. Đột nhiên tâm thức tôi tràn ngập, dù chỉ một phần, niềm hứng khởi tôn kính trước vẻ uy nghi của một Đấng Tối cao, và tôi chìm vào sự suy gẫm thật là sâu xa.
Gần như mỗi ngày khi hết phận sự, tôi đi vào nhà thờ tại Les Deux Eglises, và ngồi ở đó tại hàng ghế đầu, cố công tham thiền. Việc huấn luyện tôi đang có thì đặc biệt gay go; loại xe tăng mới mà chúng tôi đang tập sử dụng, cho phép chúng tôi mang theo một toán xạ thủ đi trước quân địch rút lui, và thả họ xuống giao thông hào của Đức để họ từ đó đánh ra khi quân Đức tới. Chẳng những công việc nhọc mệt, mà tuy tôi không ý thức nó lắm vào lúc đó, tôi đoán mình sợ hãi, vì loại hành động mà chúng tôi chuẩn bị làm, có nghĩa đi bọc hậu phòng tuyến của Đức, là một đường lối vô cùng nguy hiểm.
Một hôm khi ngồi trong nhà thờ này tìm cách cầu nguyện, và nhìn vào khung kính mầu xinh đẹp hình St Martin khoác áo choàng của mình cho người hành khất, tôi ý thức là Nhân Vật thực này đã ‘rời cửa sổ kính mầu’ và tới đứng ngay bên trên và đằng sau tôi. Tôi cảm thấy một luồng ân phước chữa lành và sức mạnh tinh thần đi xuống người; và rồi, gần như là ngài nói thành lời, tôi nhận được sự trấn an tuyệt đối, là - bất cứ việc làm nào tôi có trong tương lai - tôi sẽ được an toàn và sẽ trở về nhà an lành khi chiến tranh kết thúc. Tôi khó thể tin là chuyện như vậy có thể xẩy ra cho mình, nhưng niềm tin mạnh mẽ quá đỗi làm lòng sợ hãi hoàn toàn tan biến.
Ngày hôm sau tôi trở lại nhà thờ và trọn kinh nghiệm lập lại, và chuyện này xẩy ra vào một dịp khác nữa. Nỗi lo lắng không yên day dứt trong lòng nay biến mất hẳn, và tôi cảm thấy một sự trấn an trong tâm là sẽ được an toàn trọn vẹn. Cảm giác này ở hoài với tôi trong suốt những kinh nghiệm gay go theo sau đó, nhất là trong cuộc tiến quân lớn của đồng minh vào tháng Tám, và luôn cho tới lúc kết thúc chiến tranh.
Tuy vậy có vài trường hợp mà có vẻ như ngày cuối đời tôi chắc chắn đã tới. Trong một dịp như thế tôi đi bộ đằng trước xe tăng, hướng dẫn nó tiến lên trong đêm để chuẩn bị cho một cuộc tấn công. Bất ngờ tôi khám phá ra là mình đang đâm lưng đi vào hàng rào kẽm gai to lớn. Xe tăng tiếp tục lăn bánh tới trước, và chẳng bao lâu sẽ đè nát tôi bên dưới, mà do phép lạ nào đó tôi không thể giải thích được, người lái xe tăng thấy có thúc giục phải ngừng lại. Và nhờ thế tôi thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.
Lần khác, trong trận tấn công ở kênh đào St Quentin, tôi ở làng Hargicourt gần đó. Tôi cần phải theo dõi sát với mọi thông tin về phe địch, và tôi có được nhiều chi tiết giá trị bằng cách đi tới các hầm nơi tù binh được thẩm vấn. Có một chi tiết quan trọng đến nỗi tôi vội vàng trở lại xe tăng của mình, để truyền nó đi càng mau càng tốt. Xe tăng này là chiếc đầu tiên có trang bị vô tuyến để liên lạc trực tiếp với tổng hành dinh.
Ngôi làng đang bị pháo kích, và khi tôi bước mau trên đường làng, một quả đạn pháo bay tới làm như nhắm thẳng vào tôi. Có sức ép vào vai tôi, như thể có bàn tay đè lên giữa hai vai và tôi bị đẩy nằm sát xuống đất. Quả đạn rơi sau tôi vài thước và trọn sức nổ lướt qua mình tôi. Chiếc nón sắt của tôi văng đi lăn trên đường, còn tôi nằm đó trong một chốc, sững sờ choáng váng. Nhưng tôi không hề hấn gì, chỉ bị đau đầu nhẹ trong ba tuần sau đó nhưng không đủ mạnh khiến tôi không làm được nhiệm vụ của mình. (Chuyện kể là Thống Chế Haig cho kêu ông Hodson từ trận tuyến về, và khen ngợi ông về lòng can đảm. Sau đó ông trình diện lính của mình với Thống Chế và được đề nghị nhận Chiến Công bội tinh).
Lẽ tự nhiên tôi thở phào nhẹ nhõm, và chia sẻ với mọi người lòng biết ơn khi chiến tranh kết liễu.

Dân Sự trở lại và Cuộc Sống mới
Chỗ làm của tôi với công ty trang trí nhà cửa được giữ và tôi cảm tạ khi trở về việc đó sau giải ngũ. Sinh hoạt TTH của tôi vẫn sống động và thiết yếu. Dầu vậy chẳng bao lâu tôi thấy mình gặp khó khăn vì hoàn toàn không còn quan tâm gì đến thương nghiệp. Tính chất độc đáo của tình đồng đội, nẩy sinh trong nhóm đồng cam cộng khổ lúc chiến tranh, thấm nhuần trong tôi làm tăng thêm khó khăn cho việc thích ứng với bầu không khi của thương mại. Tôi chỉ muốn bỏ hết tất cả. Tuy nhiên trong một lúc không có đường nào mở ra cho tôi.
Rồi có sự giải cứu tuyệt diệu không mong mà được, giống như nhiều dịp khác trong đời tôi. Tôi nhận được thư mời của giám đốc tổ chức Y.M.C.A. thế giới để vào làm với tổ chức, tại một thành phố ở Anh. Lời mời này đến khi tôi có tuần trăng mật với người vợ trước của tôi, cô Jane, tại nơi thơ mộng Lake District, và một điều kiện của nó là tôi phải đi ngay tới London để có cuộc phỏng vấn. Tuy làm vậy có nghĩa là chấm dứt đột ngột dịp rất vui vẻ này, Jane và tôi quyết định là tôi nên đi.
Kết quả của buổi phỏng vấn là tôi chấp nhận việc làm, nghỉ việc với công ty trang trí nhà cửa, và dàn xếp để dự lớp chỉ dẫn trước khi chính thức nhận việc với Y.M.C.A. Rồi tôi được bổ làm thư ký cho Y.M.C.A. tại Preston, ở Lancashire. Không may là khi ấy nước Anh bị nhiều cuộc đình công trong một số ngành, với kết quả là hết kỹ nghệ này đến kỹ nghệ kia phải đóng cửa. Điều không tránh khỏi là chuyện vì vậy ảnh hưởng công việc của Y.M.C.A., lời hứa này rồi lời hứa nọ về tài chánh lần lượt rút về. Tương lai xem ra ảm đạm.
Một lần nữa, một điều như phép lạ can dự vào. Tôi bắt đầu có kinh nghiệm huyền bí lạ lùng thật rõ rệt, tự nhiên mà có khi nó xẩy đến, vì công việc ở Y.M.C.A. với thanh niên tại Preston chiếm gần hết thì giờ và năng lực của tôi.

Bước Vào Thế Giới Thiên Thần
Jane và tôi sống trong một căn nhà cũ, rộng, ngay bên ngoài thành phố. Có con chó cưng lông xù tên Peter ở đó với chúng tôi, và thành phương tiện cho sự phát triển kinh ngạc trong đời tôi. Con chó rất thông minh và là một phần trong cuộc sống của chúng tôi. Vào mùa đông, nó thích nằm gần ngọn lửa và hầu như luôn luôn có đó khi chúng tôi ngồi chơi buổi tối.
Thế nhưng một tối kia, chúng tôi ngạc nhiên thấy nó rời bên lò sưởi và đi tới góc xa kia của gian phòng dài, đứng đó một lát nhìn chăm chú vào góc phòng. Rất tò mò, chúng tôi gọi nhưng con chó không đáp ứng. Thỉnh thoảng mắt nó đảo như thể đang theo dõi gì đó bay quanh phòng; còn không thì theo ý chúng tôi làm như nó chăm chú nhìn vào khoảng trống không. Sau rốt Jane nói.
– Anh lại xem Peter ngó gì vậy.
Tôi đi tới và ngồi xuống cạnh con chó, dang tay ra ôm nó. Tôi hỏi.
– Chú mày nhìn gì thế, Peter ?
Bất thình lình nó và tôi cùng thấy bằng thông nhãn sự hiện diện của nhiều tiên nữ và một thiên thần mà tôi nghĩ là nhân vật đã mang chúng vào, dùng thông nhãn do bản năng của Peter để làm tôi chú ý. Tôi phải tả lại kinh nghiệm theo hiểu biết về sau mới có, vì khi ấy tôi chưa hiểu nó. Góc phòng tràn đầy hào quang to lớn chói sáng của thiên thần, và trong hào quang ấy ở ngang tầm mắt của chúng tôi là một số tinh linh.
Chúng bay tới lui bên trong khối mây lớn ánh sáng, thỉnh thoảng một tinh linh bay vụt quanh phòng, dừng lại trên đầu cánh cửa, hay vật nào khác trong phòng. Rồi lập tức, đám mây hào quang làm như mở ra và mọi sinh vật trong đó được bung ra bay đó đây khắp phòng. Tôi trở lại chỗ Jane ngồi cạnh lò sưởi và ráng tả lại cho nàng biết cảnh tôi thấy và vẫn còn đang thấy - nhất là một chú brownie khệnh khạng đi qua lại trên tấm thảm trước lò sưởi theo cách hết sức ngộ nghĩnh.
Thực vậy, tôi vô cùng chịu ơn Jane trong mối liên hệ đặc biệt này hơn tất cả những gì khác; vì ngay từ ban đầu khi tôi khởi sự nói về những thức tỉnh huyền bí, linh ảnh, và kinh nghiệm, nàng đáp ứng không ngần ngại cũng như là ghi lại không sơ sót từng điều một. Hệ quả là tôi được hỗ trợ về mặt cá nhân, mà cũng được trợ giúp trong việc viết tất cả những sách mình, về đề tài thế giới thần tiên và hàng ngũ thiên thần. Từ việc mô tả về sau hình ảnh của tiên nữ thấy tại Sheepscombe, cho đến việc có được hết sức bất ngờ và hoàn toàn không mong đợi mối liên hệ với Đại Thiên thần Bethelda, và nhận huấn thị của ngài, nàng cẩn thận chép từng lời một mỗi bài ghi lại kinh nghiệm như thế. Nếu không có sự trợ giúp luôn sẵn sàng cách đó, những sách nói trên khó mà có thể được cho ra đời.
Và do đó có khởi đầu cho sự học hỏi của tôi về thế giới thần tiên và thiên thần, vì sự viếng thăm này diễn ra suốt mùa đông dài và lạnh. Vào lúc đó, chưa biết ý nghĩa của đời mình, tôi xem mình chỉ như là người thám hiểm vùng đất mới, ghi chép lại các điều xẩy ra chính xác tới hết sức mình. Phần lớn các mô tả ấy sau này thành sách tên Fairies at Work and at Play (có đăng trên PST ‘Cuộc Sống ngoạn mục của Tinh Linh’).
Tới mùa xuân, Jane và tôi vào rừng, đồng cỏ, lên đồi, học hỏi những điều này ngay giữa thiên nhiên. Đây quả là thời gian tuyệt vời, trong đó tôi thu thập được nhiều hiểu biết về thế giới thiên thần ở những nơi khác nhau tại Anh, và nhất là ở vùng Lake District và vùng núi. Giữa các chuyện này, tôi cố gắng hết sức chu toàn công việc với Y.M.C.A., nhưng bởi có đình công liên tiếp, thành công của tôi không được nổi bật.

Lời Kêu Gọi làm Nghiên Cứu Huyền Bí
Làm như định mạng lại can thiệp lần nữa. Một nhóm hội viên ở London hẳn có nghe đôi điều về chuyện gì đang xẩy ra, và mời Jane với tôi đi London và làm việc với họ, để thiết lập những phương pháp trong nhiều lãnh vực về phúc lợi cho con người, trong đó có y khoa và việc chữa lành người bệnh. Tôi có cuộc phỏng vấn với người bạn tốt và huynh đệ của chúng tôi là ông Bailie-Weaver, là luật sư và hội viên hàng đầu của hội Theosophy, tại văn phòng của ông ở London, với kết quả là tôi nhận lời mời.
Chúng tôi bán nhà mình ở Preston và đi London, sống dưới sự bảo trợ của nhóm rất khá giả này, trong số ấy có ít nhất một triệu phú và một thành viên của giới quý tộc Anh, công nương Muriel Delaware. Cả hai mau chóng thành bạn hữu và chia sẻ trong việc nghiên cứu thành kỹ thuật chữa bệnh. Tôi đã viết về đề tài này ở nơi khác, nhưng tôi có thể nói ở đây là khi làm việc với một nhóm y sĩ trong  việc học hỏi về cách chữa lành, tôi trở thành ý thức về sự hợp tác của những vị mà tôi phải gọi là thiên thần chữa bệnh.
Thực vậy, vài sự kiện thật đáng nói, chẳng hạn như đột nhiên lành bệnh mà tôi không cần gắng sức mấy, đã liên tục xẩy ra trong sáu năm hay hơn nữa khi tôi làm công việc này. Tính chất tổng quát của việc làm được mô tả và xuất bản thành sách tên Some Unrecogised Factors in Medicine, với sự biên tập của bạn rất thân của tôi, y sĩ Tudor Edmunds. Nay sách do Quest Books xuất bản, thuộc Theosophical Publishing House.
Một việc làm khác được thực hiện trong thời gian này là sự nghiên cứu về dời sống thai nhi trước khi sinh, vì việc nghiên cứu của chúng tôi về nguồn sâu xa của bệnh nơi con người, vạch ra lần này rồi lần kia về sự quan trọng của giai đoạn này, trong vòng tái sinh của con người tinh thần hay Chân nhân. Có đề nghị đưa ra, và tôi đồng ý, là tôi nên hợp tác với các y sĩ này trong việc nghiên cứu diễn biến xẩy ra của giai đoạn ấy. (còn tiếp)